"Ngựa lướt
vầng dương thành sầm tối,
Sừng tê rẽ nước
giữa ban ngày.
Móng rùa mưu rễ
đem đi mất
Lông ngỗng lòng
con ai biết đây?
Sông núi lệ tuôn
trai ngọc kết,
Oan khiên khôn lấp
giếng xưa đầy.
Phách hồn trinh
trắng còn không mất,
Cờ quế đêm mưa
gió lắt lay!"
-
Con nghe bài thơ ấy từ đâu vậy?
-
Con nghe từ mọi người trong làng. Nhưng bài thơ này nói về điều gì vậy thưa mẹ?
-
Ôi con trai của ta! Mẹ sẽ kể cho con nghe một câu chuyện. Chỉ một mình con mà
thôi! Câu chuyện bí ẩn cuối cùng của vương quốc Âu Lạc.
Năm
257 trước công nguyên, nước Âu Lạc được hình thành và cai trị bởi một vị vua
anh minh, tài giỏi tên là An Dương Vương. Vua chăm lo cho dân chúng, nhanh
chóng tiến hành xây dựng thành phòng thủ. Nhưng không hiểu vì lý do gì, hễ đắp
tới đâu thì đất lại lở ra đến đấy. Vua lo lắng, lập đàn trai giới để cầu xin
bách thần. Thấy vua một lòng vì giang sơn xã tắc, sứ Thanh Giang là Rùa Vàng đã
dùng phép giúp vua xây thành chỉ trong nửa tháng. Thành ấy có hình xoắn ốc, tên
gọi là Quỷ Long thành hay còn gọi là thành Cổ Loa. Trước khi trở về, sứ Thánh
Giang tháo vuốt ban cho An Dương Vương để chế tạo vũ khí chống quân xâm lược.
Vua sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt làm lẫy. Nỏ thần một lần có thể bắn ra hàng
trăm mũi tên, "bách phát bách trúng", nên được gọi là "Linh
Quang Kim Quy thần cơ".
Một
lần, Triệu Đà- kẻ tham lam và xảo trá- từ phương Bắc cử quân sang xâm lược Âu Lạc.
An Dương Vương dùng nỏ thần chiến đấu, quân Triệu Đà thua lớn, rút về núi Trâu
Sơn đắp luỹ rồi xin hoà. Không lâu sau, Triệu Đà cho Trọng Thuỷ là con trai
mình đến hoà thân với công chúa Mị Châu xứ Âu Lạc. Chỉ nghĩ đến việc xây dựng
hoà bình, không suy xét, vua An Dương Vương liền chấp thuận. Trọng Thuỷ là một
chàng trai khôi ngô, tuấn tú, tướng mạo thanh cao, trông có vẻ không phải là một
người có tâm địa ác độc như cha của chàng. Có lẽ vì thế mà vua An Dương Vương
và công chúa tin tưởng, yêu mến Trọng Thuỷ không một chút nghi ngờ. Mị Châu đã
dẫn Trọng Thuỷ xem hết các ngõ ngách của loa thành. Trọng Thuỷ ngỏ ý muốn xem nỏ
thần, Mị Châu đã lấy nỏ thần cho chồng xem rồi sai người đem cất đi.
Một
thời gian sau, Trọng Thuỷ đột ngột xin về thăm cha. Trước đêm khởi hành, Trọng
Thuỷ gặp Mị Châu và nói rằng:
- Tình phu thê đến bạc
đầu cũng không nỡ chia lìa, nhưng nghĩa mẹ cha là máu chảy trong tim, lại không
thể dứt bỏ. Nay ta trở về thăm cha, đường đi xa xôi, hiểm trở ngàn dặm. Nếu lỡ
hai nước thất hoà, Bắc Nam cách biệt, ta quyết tìm nàng, lấy gì làm dấu?
- Thiếp phận nữ nhi, nếu
gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng hay mang
trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông ngỗng làm dấu, nhất định ta sẽ đoàn tụ!- Mị
Châu nghẹn ngào đáp lại.
Trọng Thuỷ cài lên mái
tóc của Mị Châu một cây trâm khắc hình đôi uyên ương bằng ngọc thạch. Chàng
nhìn Mị Châu bằng đôi mắt tràn ngập tình yêu nhưng phảng phất một nỗi buồn sâu
thẳm:
- Đây là cây trâm do
chính ta làm tặng nàng. Đôi uyên ương này là minh chứng cho tình yêu giữa hai
ta. Hãy tin tưởng ta, dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, có được không?
- ...Chàng sẽ phản bội
ta và đức vua, có đúng không?- Mị Châu khẽ hỏi với hai dòng nước mắt lăn trên
má.
Trọng Thuỷ cố cất giấu
sự ngạc nhiên bằng ánh nhìn đầy chân thành. Chàng nhẹ nhàng ôm Mị Châu vào lòng
và thầm thì vào tai nàng:
- Không bao giờ!
Công chúa mỉm cười, dựa
đầu vào vai Trọng Thuỷ, bàn tay siết chặt đôi vai vững chãi của chàng. Họ thề
nguyện một lòng chung thuỷ và rồi chia tay trong nước mắt dưới sự chứng giám của
ánh trăng đêm hôm ấy.
Ba
tháng sau khi Trọng Thuỷ về phương Bắc, Triệu Đà bất ngờ cầm quân tiến công, xâm
chiếm Âu Lạc lần thứ hai. An Dương Vương nghe tin liền cười và nói rằng: “ Đà
không sợ nỏ thần của ta sao?”. Vua vẫn ngồi đánh cờ một cách điềm nhiên. Khi
quân của Triệu Đà đã đến sát thành, An Dương Vương bỗng nhận ra nỏ thần đã bị
đánh tráo. Không còn đủ bình tĩnh, vua An Dương Vương xô cả chồng sách sử kí
vào lò lửa rồi hét lớn:
- Trọng Thuỷ!
Chính người đã làm việc này! Ta nguyền rủa ngươi!
Không còn nỏ thần, An
Dương Vương cùng Mị Châu leo lên ngựa chạy về phương Nam.Trên đường đi, Mị Châu
không quên rắc lông ngỗng chỉ đường cho Trọng Thuỷ. Ngựa chạy đến bờ biển, thấy
không còn đường thoát, An Dương Vương cầu cứu sứ Thanh Giang. Sứ Thanh Giang hiện
lên, kết tội Mị Châu: "Chính người ngồi sau ngựa mới là giặc!". Mị
Châu hoảng hốt, ngã ngựa, sụp lạy dưới chân An Dương Vương nức nở rằng:
- Nếu con có một lòng
phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu con có một lòng
trung hiếu mà bị người lừa dối, chết sẽ biến thành ngọc châu để rửa sạch mối nhục
thù!
An Dương Vương nhìn con
mình bằng ánh mắt ngỡ ngàng rồi đến căm phẫn, nhưng sâu thẳm trong ánh mắt ấy
là nỗi đau khổ đến tột cùng. An Dương Vương gào thét trong đau đớn:
- Ta không có đứa con
như ngươi!
Nói xong, An Dương
Vương rút kiếm lao thẳng đến người Mị Châu. Nhưng mũi kiếm ấy đã dừng lại! Một
màu đỏ thẫm bao phủ khắp thanh kiếm, mùi máu tanh chết chóc tản đi khắp không
gian mịt mù. Thì ra Trọng Thuỷ đã kịp lấy thân mình đỡ nhát kiếm ấy cho công
chúa.
- Ngài nhẫn tâm đến mức
giết chết con gái và cả đứa cháu chưa kịp chào đời của mình hay sao?!- Trọng
Thuỷ hét vang trời rồi ngã gục xuống đất.
An Dương Vương buông kiếm,
khuỵ đầu gối xuống, chưa định thần được chuyện gì đang xảy ra. Mị Châu run rẩy
ôm Trọng Thuỷ vào lòng mà nấc nghẹn:
- Tại sao?...Tại sao lại
đỡ gươm? Lưỡi gươm ấy phải dành cho ta... là kẻ đã hại đất nước vì quá tin
chàng...Chàng đã dối ta!
- Không! Công chúa của
ta ơi! Ta chưa một lần lừa dối nàng! Chưa bao giờ!
- Chàng đột ngột trở về
phương Bắc. Không lâu sau thì cha chàng kéo quân xâm lược Âu Lạc, nỏ thần cũng
bị đánh tráo! Không phải chàng làm hay sao?!
-Ta không làm chuyện
đó! Lần này trở về phương Bắc, cốt là để ta thuyết phục cha từ bỏ ý định thâu
tóm Âu Lạc. Nhưng không ngờ, cha ta đã phòng tính trước sẽ có ngày ta làm như vậy
nên đã sớm cho người trà trộn vào lính canh gác thành Cổ Loa để đánh tráo nỏ thần.
Ta không thể ngăn cản, lập tức dẫn quân cứu nàng và đức vua. Thật không ngờ...ta
xin lỗi...Mị Châu!- Trọng Thuỷ gắng giải thích với chút sức lực cuối cùng.
Mị Châu đau buồn vì đã
hiểu lầm Trọng Thuỷ, quyết cùng chết với chàng, nàng rút cây trâm trên đầu
do Trọng Thuỷ tặng toan đâm vào cổ tự tử thì Trọng Thuỷ lấy tay mình ngăn lại.
Chàng ứa nước mắt và thì thào rằng:
- Đừng! Ta cầu xin
nàng! Nỗi đau lớn nhất cuộc đời ta là không bảo vệ được cho thê tử. Nàng phải sống
vì con của chúng ta.- Trọng Thuỷ nhìn lên trời, khuôn mặt chàng trắng bệch
không còn sức sống- Hãy đặt tên con là Tự Vĩnh, nghĩa là mãi mãi...ta...yêu...nàng!
Trọng
Thuỷ chết nhưng mắt chàng không hề nhắm lại. Cây trâm uyên ương nhuốm máu như
chính bi kịch tình yêu của họ. Mị Châu đau đớn hôn lên đôi môi của Trọng Thuỷ.
Nước mắt đôi uyên ương hoà quyện vào nhau rửa sạch mọi mùi tanh dơ bẩn của oan
ức và thù hận. Trời đổ cơn mưa. Có lẽ ông trời cũng xót xa trước cảnh tượng đau
lòng ấy!
Xác Trọng Thuỷ tan vào
làn mưa, biến thành cơn gió quấn lấy Mị Châu và An Dương Vương đưa đến núi Tây
Sơn.
- Xin hãy tha thứ cho
cha!- Vua An Dương Vương buồn rầu nói với Mị Châu.
Vua An Dương Vương đặt
tay lên bụng Mị Châu rồi nói với đứa trẻ trong bụng nàng rằng:
- Nhân dân Âu Lạc, ta
giao phó cho con!
Nói xong, An Dương
Vương hoá rồng, bay lên tận trời cao vĩnh viễn dõi theo dân tộc Lạc Hồng.
Tại
làng Hoả Long trên núi Tây Sơn có đồn đại một lời tiên tri rằng:"Nơi đây sẽ
có một vị anh hùng được sinh ra và gắn kết nhân dân Đại Việt". Đó là lời
tiên tri cuối cùng...Từ đó, không còn ai nghe thấy điều gì nữa…
-Một
câu chuyện buồn, mẹ nhỉ? Mẹ đang khóc đó sao?
-
Không, chỉ là Gió làm cay mắt của mẹ thôi. Chúng ta cùng về nhà nào, Tự Vĩnh!